Ngành ngân hàng ảnh hưởng lên các doanh nghiệp niêm yết như thế ?

Một tỷ lệ rất lớn vốn vay của hệ thống ngân hàng đang được giải ngân vào thị trường bất động sản. Việc ngân hàng gia tăng hay điều chỉnh giảm mức cho vay vào nhóm ngành bất động sản sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến triển vọng hoạt động của những cổ phiếu ngành này, thông qua đó ảnh hưởng đến giá trị cổ phiếu và cuối cùng là tác động đến toàn thị trường.

Tóm lược 

  • Ngành bất động sản Việt Nam là nhóm ngành phụ thuộc rất nhiều vào nguồn vốn vay từ ngân hàng để hoạt động.
  • Tỷ lệ floating của Việt Nam thấp hơn nhiều so với các nước trong khu vực.
  • Mức giá đang được xác định hằng ngày ngoài thị trường không hẳn là một mức giá đáng tin cậy bởi nó được quyết định bởi một số lượng cổ phiếu thấp hơn nhiều so với số lượng cổ phiếu hiện có của công ty.

Đặc điểm của thị trường mà các bạn cần quan tâm đó là sự liên quan giữa hai nhóm ngành nghề chiếm tỷ trọng lớn nhất là ngân hàng và bất động sản. Ngành bất động sản Việt Nam là nhóm ngành phụ thuộc rất nhiều vào nguồn vốn vay từ ngân hàng để hoạt động. Tỷ lệ tài trợ nợ của nhóm doanh nghiệp này ở mức rất cao. Các số liệu thống kê từ báo cáo tài chính của các doanh nghiệp niêm yết cho thấy tỷ lệ nợ trên vốn chủ sở hữu của nhóm ngành bất động sản là cao hơn hẳn so với các ngành khác.

      Điều đó thể hiện một tỷ lệ rất lớn vốn vay của hệ thống ngân hàng đang được giải ngân vào thị trường bất động sản. Việc ngân hàng gia tăng hay điều chỉnh giảm mức cho vay vào nhóm ngành bất động sản sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến triển vọng hoạt động của những cổ phiếu ngành này, thông qua đó ảnh hưởng đến giá trị cổ phiếu và cuối cùng là tác động đến toàn thị trường. Qua đó có thể thấy ảnh hướng to lớn của hệ thống ngân hàng lên thị trường chứng khoán cũng như thấy được mối quan hệ liên quan giữa Ngân hàng - Chứng khoán - Bất động sản trong mối quan hệ giữa nền kinh tế và thị trường chứng khoán.

      Trong năm 2017 khi mà thị trường chứng khoán tăng 48% thì top 20 cổ phiếu có vốn hóa lớn nhất đã đóng góp vào mức 40% tăng trưởng của thị trường và tỷ trọng đóng góp chủ yếu đến từ các nhóm ngành ngân hàng và bất động sản. Điều đó có nghĩa là nếu nhà đầu tư muốn có mức tăng trưởng cao thì gần như bắt buộc trong danh mục của họ phải có cổ phiếu ngành ngân hàng và ngành bất động sản. Việc tăng trưởng tập trung như vậy cũng khiến cho thị trường rất quan tâm về mức độ bền vững của thị trường khi mức độ gia tăng không phải là trên diện rộng.

      Tỷ lệ floating (hay còn gọi là tỷ lệ free float) là tỷ lệ lượng cổ phiếu có thể mua trực tiếp trên thị trường so với tổng cổ phiếu của một công ty. Tỷ lệ floating cũng là một vấn đề của thị trường chứng khoán. Tỷ lệ floating này cho biết số lượng cổ phiếu thực sự có thể giao dịch ngoài thị trường so với tổng số cổ phiếu của thị trường là bao nhiêu. Tỷ lệ floating càng thấp chứng tỏ cổ phiếu của doanh nghiệp đang tập trung trong tay các cổ đông lớn của công ty.

      Tỷ lệ floating của Việt Nam thấp hơn nhiều so với các nước trong khu vực. Chỉ tiêu này cũng thể hiện phần nào thực trạng chúng ta đã phân tích trong phần trước khi thị trường chứng khoán chỉ huy động được một phần vốn rất nhỏ từ dân cư. Một ý nghĩa thứ hai nữa của vấn đề này đó là mức giá đang được xác định hằng ngày ngoài thị trường không hẳn là một mức giá đáng tin cậy bởi nó được quyết định bởi một số lượng cổ phiếu thấp hơn nhiều so với số lượng cổ phiếu hiện có của công ty.