Xu hướng của quỹ đầu tư chỉ số - ETF (P.1): Mở đầu

      Mặc dù, với tiềm năng tăng trưởng của thị trường trong tương lai, tuy nhiên việc đầu tư các cổ phiếu đơn lẻ ở Việt Nam sẽ có mức độ rủi ro rất cao. Thị trường chứng khoán tuy tăng trưởng trung bình 12-13%/năm trong suốt 20 năm qua, nhưng rất ít nhà đầu tư, đặc biệt là những nhà đầu tư cá nhân có thể đạt mức sinh lời trong 20 năm qua. Thị trường tăng trưởng trong dài hạn nhưng sự biến động trong ngắn hạn là rất lớn.

      Các sản phẩm ETF, tức là các quỹ đầu tư chỉ số ra đời ở Việt Nam, nhằm giúp những nhà đầu tư ở Việt Nam có thể tiếp cận với một danh mục cổ phiếu đa dạng, có thể đại diện cho mức sinh lời trung bình của thị trường. Khi nhà đầu tư mua cổ phiếu ETF thì họ không đầu tư vào bất kỳ cổ phiếu riêng lẻ nào, thay vào đó là một danh mục đại diện cho triển vọng chung của nền kinh tế Việt Nam. Khi nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng tốt, các doanh nghiệp làm ăn lãi cao, thì khi đó doanh nghiệp niêm yết lớn trên sàn cũng sẽ đạt mức sinh lời tương ứng, từ đó sẽ ảnh hưởng tích cực lên giá cổ phiếu.

      Các sản phẩm ETF khá tương đồng với quỹ tương hỗ đang giao dịch trên sàn giao dịch chứng khoán giống như các quỹ tương hỗ truyền thống, tuy nhiên có một số yếu tố đặc thù của quỹ ETF khá khác biệt nên ta tách riêng ra khỏi quỹ tương hỗ:

  • Giao dịch trong ngày: Khác với chứng chỉ quỹ tương hỗ, chứng chỉ quỹ ETF có thể mua và bán trong ngày, nhưng cổ phần của các quỹ ETF thường được mua hoặc bán lại cho tổ chức phát hành vào cuối ngày giao dịch.
  • Không quy định mức đầu tư tối thiểu: Trong khi chứng chỉ quỹ ETF có thể mua và bán với số lượng rất nhỏ như một cổ phiếu thông thường. Nhưng để muachứng chỉ quỹ thông thường, nhà đầu tư phải mua với số tiền mua tối thiểu theo mức mà công ty quản lý quỹ quy định.
  • Cơ cấu chi phí thấp hơn: Chi phí quản lý quỹ ETF là rất thấp vì hầu hết quỹ ETF là quỹ thụ động và đầu tư mô phỏng theo chỉ số, bên cạnh đó chi phí giao dịch chứng chỉ quỹ cũng thấp là do quỹ này hoạt động trên sàn giao dịch chứng khoán như một cổ phiếu thông thường. Chính vì vậy, hầu hết quỹ tương hỗ thông thường có tỷ lệ chi phí cao hơn nhiều so với các quỹ ETF.
  • Tập hợp các khoản đầu tư rộng hơn: Quỹ ETF cho phép nhà đầu tư tiếp cận dễ dàng và tiếp cận nguồn đầu tư rộng hơn, đồng thời được trực tiếp tiếp xúc vào những tài sản hàng hóa cũng như phép sử dụng những sản phẩm phái sinh.
  • Thuế: Những quỹ ETF ít mua bán cổ phiếu nên ít tạo ra phần thu nhập chịu thuế, đồng thời quỹ ETF là kênh đầu tư có hiệu quả về thuế tốt hơn so với những quỹ tương hỗ.

      Các sản phẩm ETF không mới và thực tế đã có mặt trên thị trường thế giới trong ¼ thế kỷ qua. UBCK Mỹ đã chấp thuận cho giao dịch mô phỏng chỉ số S&P 500 năm 1993. Mãi cho đến 2008, UBCK Mỹ chỉ chấp thuận những ETF mô phỏng được xác định trước chỉ số. Trước năm 2008, UBCK Mỹ chỉ chấp nhận những chỉ số ETF mô phỏng chỉ số, những ETF này thường mô phỏng chỉ số phổ biến ngoài thị trường. Mô phỏng kết quả đầu tư từ những chỉ số này, sau đó 2008 có nhiều chỉ số đa dạng hơn được mô phỏng. Vào cuối năm 2018, thị trường Mỹ đã có 1660 quỹ ETF mô phỏng chỉ số với tổng tài sản 3.300 tỷ đô la, chiếm 71% trong tổng quy mô tài sản 4.700 tỷ đô la. Như vậy, chỉ trong vòng 10 năm giá trị các quỹ ETF được quản lý đã tăng hơn 5 lần, từ 773 tỷ đô la cuối năm 2009 lên đến 3.300 tỷ đô la vào cuối năm 2018.

      Trong phần tiếp theo, chúng ta sẽ điểm qua sự phát triển của thị trường sản phẩm đầu tư ETF trên thị trường thế giới và thực trạng hoạt động, cũng như những triển vọng của sản phẩm này ở thị trường Việt Nam trong tương lai.