Triển vọng tăng trưởng tín dụng quý 4 của các ngân hàng thương mại

Tăng trưởng tín dụng là một nhiệm vụ trọng tâm trong những quý cuối năm để có thể hỗ trợ nguồn vốn cho nền kinh tế. Trong quý III năm 2024, tín dụng của nền kinh tế Việt Nam đã có dấu hiệu phục hồi mạnh mẽ. Theo báo cáo từ Ngân hàng Nhà nước, tính đến ngày 30/9/2024, tăng trưởng tín dụng toàn hệ thống ngân hàng đạt 9% so với đầu năm, cao hơn so với mức 6,95% của cùng kỳ năm trước.

Ngành ngân hàng được giao một nhiệm vụ kép đó là phải đảm bảo duy trì tăng trưởng tín dụng nhưng vẫn phải đảm bảo chất lượng của đồng vốn tín dụng trong bối cảnh việc lựa chọn giải ngân vẫn đang rất khó khăn. Mỗi ngân hàng thương đã phải rất linh hoạt trong chiến lược tăng trưởng trong năm nay để vừa có thể cân bằng giữa tăng trưởng và quản trị rủi ro.

Diễn biến tăng trưởng tín dụng của toàn ngành

Động lực tăng trưởng tín dụng của hệ thống ngân hàng chủ yếu đến từ các ngân hàng niêm yết. Cụ thể, 27 ngân hàng niêm yết đạt mức tăng trưởng tín dụng 11,53%, tăng 3.5% so với Q2 và cải thiện hơn rất nhiều so với 9T2023 chỉ đạt 9.22%. Với mức tăng trưởng tín dụng toàn hệ thống ngân hàng cuối quý 3 được công bố vào mức khoảng 9% thì như vậy rõ ràng mức tăng trưởng tín dụng của toàn hệ thống đều phụ thuộc vào các ngân hàng niêm yết. Với mục tiêu tăng trưởng tín dụng 15% cho cả năm 2024, kết quả hiện tại mới chỉ đạt khoảng 60% kế hoạch, tạo áp lực lớn cho cả nhóm ngân hàng quốc doanh và ngân hàng thương mại cổ phần trong quý IV năm nay. Việc đánh giá động lực tăng trưởng của nhóm ngân hàng sẽ đóng vai trò quan trọng để chúng ta có thể đánh giá khả năng hoàn thành tăng trưởng tín dụng chung của toàn hệ thống.

Giữa các ngân hàng thương mại (NHTM) niêm yết cũng có sự phân hóa rõ rệt, thể hiện qua mức tăng trưởng tín dụng trong báo cáo tài chính quý 3/2024. Để hiểu sâu hơn về động lực tăng trưởng tín dụng, chúng ta có thể chia 27 NHTM thành bốn nhóm chính dựa trên quy mô tài sản và cơ cấu khách hàng, gồm nhóm quốc doanh, nhóm chuyên cho vay doanh nghiệp, nhóm chuyên cho vay cá nhân và nhóm các ngân hàng thương mại cổ phần quy mô nhỏ. Tương ứng với mỗi nhóm ngân hàng thì sẽ có các chiến lược và động lực tăng trưởng khác nhau.

Diễn biến tăng trưởng tín dụng của ngành ngân hàng

Picture2-42

Nguồn: widata.vn
           
Dẫn đầu tăng trưởng tín dụng là nhóm ngân hàng cho vay doanh nghiệp mức 14,65% so với đầu năm và tăng thêm 4,4% so với quý II/2024. Mức tăng trưởng này tốt hơn đáng kể so với mức chỉ 12,2% trong 9 tháng đầu năm 2023. Nhóm này chủ yếu tập trung cho vay các doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp vừa và nhỏ (SMEs) cùng các doanh nghiệp trong hệ sinh thái và đã tận dụng hiệu quả sự phục hồi trong sản suất công nghiệp để mở rộng tín dụng. Trong khi đó, nhóm ngân hàng chuyên cho vay tiêu dùng gặp nhiều khó khăn khi nhu cầu vay tiêu dùng chững lại. Tuy nhiên, việc chuyển hướng sang cho vay các doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME) và doanh nghiệp lớn đã giúp các ngân hàng này giữ được mức tăng trưởng 11.94%, duy trì được đà phát triển trong bối cảnh nhu cầu tiêu dùng suy giảm. Nhóm quốc doanh vẫn đóng vai trò đầu tàu trong hệ thống khi tăng trưởng rất ổn định 3% quý 3 nâng tăng trưởng 9 tháng lên 9.69%, cải thiện hơn rất nhiều so với cùng kỳ năm ngoái chỉ đạt 7.29%.

Trong khi đó, nhóm các ngân hàng tư nn khác mặc dù gặp nhiều khó khăn trong việc tăng trưởng trong 6 tháng đầu năm so với các nhóm kể trên nhưng đã ghi nhận mức tăng trưởng đột phá, đạt 4%, nâng tổng tăng trưởng 9 tháng lên 10,6%. Sự gia tăng này tạo ra thách thức lớn về kiểm soát chất lượng tín dụng trong quý IV, đòi hỏi các ngân hàng phải thận trọng trong quản lý rủi ro để đảm bảo duy trì sự ổn định và hiệu quả trong bối cảnh tín dụng mở rộng nhanh chóng để vừa đạt mục tiêu tăng trưởng của cả ngành và cả mục tiêu kinh doanh của mỗi ngân hàng.
Diễn biến tăng trưởng tín dụng của các ngân hàng
Trong quý này một số ngân hàng trong nhóm cho vay doanh nghiệp đã đạt mức tăng trưởng ấn tượng, như Techcombank tăng 4% Q3 với động lực chính đến từ lĩnh vực công nghiệp (+26%yoy) và lĩnh vực tài chính (+41%), chiến lược đa dạng dạng hóa danh mục đã phát huy hiệu quả giúp Techcombank đạt được mức tăng 20% trong 9 tháng đầu năm. HDBank 9T2024 tăng 17,4% với động lực tăng trưởng chính tới từ cho vay khách hàng doanh nghiệp lớn và SME (+25.4% YTD), MB Bank tăng 14.9% với các lĩnh vực dẫn dắt tăng trưởng trong quý bao gồm bán buôn bán lẻ (+19.1% YTD) và đặc biệt là 2 lĩnh vực kinh doanh BĐS (+27.6% YTD) và dịch vụ lưu trú (+22.6% YTD) tăng khá nhanh.  Ngược lại, vẫn có các ngân hàng ghi nhận mức tăng trưởng chậm hơn, như OCB Bank với 7,29% và SHB, SeABank chỉ khoảng 9,5%. Điều này phản ánh rõ nét hiệu quả của chiến lược chuyên biệt theo từng phân khúc khách hàng mà mỗi ngân hàng đã triển khai, giúp họ tối ưu hóa lợi thế cạnh tranh và củng cố vị thế trong thị trường tín dụng.

Còn đối với nhóm ngân hàng chuyên cho vay cá nhân thì quý này cũng đã ghi nhận mức tăng trưởng đột biến ở một số ngân hàng như TPBank với 10,37% và VIB đạt 7%. Tuy nhiên, phần lớn tăng trưởng vẫn chủ yếu đến từ cho vay doanh nghiệp. Trong bối cảnh nhu cầu vay tiêu dùng suy giảm, việc các ngân hàng bán lẻ chuyển hướng sang cho vay doanh nghiệp để đạt mục tiêu tăng trưởng là điều dễ hiểu. Ngay cả ACB, động lực tăng trưởng chính cũng đến từ nhóm khách hàng doanh nghiệp vừa và lớn, trong khi nhóm khách hàng cá nhân và SME gần như đi ngang so với quý trước. Tương tự, VPBank cũng đã chuyển sang cho vay các doanh nghiệp FDI và SME, trong khi dư nợ FE Credit lại giảm trong bối cảnh tiêu dùng suy yếu.

Phân tích kỹ hơn về tỉ trọng dư nợ cho vay doanh nghiệp, có thể thấy tỷ lệ này tăng đáng kể so với quý IV năm 2023. Điển hình là VPBank với tỷ trọng cho vay doanh nghiệp đạt 53%, tăng 4% so với đầu năm; TPBank tăng từ 45% lên 49,7%; VIB tăng từ 16% lên 21%; và ACB từ 33% lên 35%. Mặc dù chiến lược mở rộng cho vay doanh nghiệp giúp các ngân hàng đạt mục tiêu tăng trưởng, nhưng điều này cũng đi kèm với sự sụt giảm NIM, khiến lợi nhuận có xu hướng bị chững lại.

Diễn biến tăng trưởng tín dụng YTD của các ngân hàng trong 3 quý đầu năm

Picture3-39
 

Nguồn: widata.vn

Nhóm quốc doanh quý 3 có nhịp tăng chậm hơn so với các nhóm còn lại, điều này khá dễ hiểu khi nhóm quốc doanh có quy mô dư nợ lớn hơn các nhóm khác rất nhiều nên họ tăng trưởng rất thận trọng, họ có khả năng chọn lọc khách hàng tốt để cho vay và tệp nghành nghề rất đa dạng. Có thể thấy quý này sự chậm lại này diễn ra ở Vietinbank trong khi BIDV và Vietcombank tăng trưởng rất tốt, Vietcombank 9 tháng cùng kỳ năm ngoái chỉ tăng được 3.79% thì năm nay đã là 10%, dẫn dắt chính bởi cho vay khách hàng, đặc biệt là ở nhóm KHDN lớn và khách hàng FDI trong khi nhóm bán lẻ ghi nhận nhu cầu cải thiện chậm.

Quý này, nhóm ngân hàng khác đã có sự tăng trưởng đột biến ở một số ngân hàng, điều hiếm gặp với nhóm này. Thông thường, nhóm ngân hàng nhỏ không được kỳ vọng sẽ tăng trưởng mạnh do thiếu chiến lược rõ ràng hoặc tập trung cho vay các doanh nghiệp hệ sinh thái. Tuy nhiên, nhiều ngân hàng như KienLong Bank, Eximbank, Nam Á Bank, BVB, VAB đã có mức tăng trưởng tín dụng đáng kể trong quý này. Điều kỳ lạ là các ngân hàng nhóm khác lại có sự sụt giảm về mức nợ xấu trong quý 3. Mức nợ xấu sụt giảm trong bối cảnh các ngân hàng này tăng mạnh việc giải ngân tín dụng có thể tạo ra những quan ngại về chất lượng danh mục cho vay ở các nhóm ngân hàng này.

Kỳ vọng gì ở tăng trưởng tín dụng quý 4 của các nhóm ngân hàng

Mục tiêu tăng trưởng tín dụng của năm 2024 là 15% tuy nhiên do nhóm các ngân hàng thương mại chưa niêm yết thường có mức tăng trưởng thấp và gần như không tăng trưởng do đó gánh nặng tăng trưởng sẽ gần nhỏ đổ toàn bộ lên cho các ngân hàng niêm yết. Do đó, mức tăng trưởng cần thiết của các ngân hàng niêm yết cần phải đạt được từ mức 17-18%, tức lại từ giờ đến cuối năm thì nhóm này cần tăng từ 5,5-6,5%. Mỗi nhóm ngân hàng đều có những thuận lợi và khó khăn riêng cuộc đua tăng trưởng cho quý còn lại của năm.

Đối với nhóm ngân hàng tư nhân chuyên cho vay doanh nghiệp: Nhóm này đã đạt mức tăng trưởng khá cao và có những kế hoạch giải ngân khá tốt cho các nhóm ngành nghề mục tiêu, tuy nhiên dư địa room tăng thêm không còn nhiều. Nhiều khả năng NHNN cần phải cấp thêm room tín dụng cho nhóm ngân hàng này trong 2 tháng cuối năm thì mới có thể duy trì nhịp tăng trưởng.

Đối với nhóm ngân hàng tư nhân chuyên cho vay cá nhân: Kỳ vọng cao sẽ nằm ở nhóm này nơi dư địa tăng trưởng tín dụng vẫn còn rất lớn so với room được cấp và đặc biệt là nhóm ngân hàng này đã bắt đầu chuyển dịch mạnh sang phân nhóm cho vay doanh nghiệp và đã có đà tăng trưởng tốt trong quý 3.

Đối với nhóm ngân hàng quốc doanh: Nhóm này nhiều khả năng sẽ duy trì chiến lược tăng trưởng thận trọng và phải cân bằng với mức sinh lời khi việc tăng trưởng tín dụng trong thời gian qua đã khiến nhóm ngân hàng này sụt giảm mức NIM rất đáng kể. Khả năng nhóm này chỉ có thể tăng trưởng ở mức 12-14%.

Đối với nhóm ngân hàng tư nhân khác: Động lực lớn nhất hiện nay có thể nằm ở nhóm ngân hàng này, tuy nhiên đây cũng là một nguồn rủi ro cần được kiểm soát. Việc mở rộng tín dụng nhanh chóng trong nhóm này có thể mang lại lợi nhuận ngắn hạn, nhưng cũng đòi hỏi sự kiểm soát rủi ro chặt chẽ hơn trong giai đoạn cuối năm.

Tình hình tín dụng năm nay vẫn sáng sủa hơn nhiều so với năm ngoái vào nhiều khả năng mức tăng 15% có thể đang quá cao, tuy nhiên mức 13,5% đến 14% thì vẫn có thể đạt được. Quan trọng nhất dòng vốn tín dụng vẫn cần được kiểm soát chặt chẽ để đảm bảo tính an toàn và dòng vốn cần đi vào các hoạt động kinh tế thực.

 

Lê Hoài Ân, CFA

Trương Công Hoàng Duy – Yuanta Việt Nam

Chia sẻ: