XU HƯỚNG NIM CỦA HỆ THỐNG NGÂN HÀNG QUÝ 3/2024

Kết quả báo cáo tài chính quý 3 của các ngân hàng niêm yết cho thấy nhu cầu tín dụng cá nhân của một số ngân hàng đã bắt đầu phục hồi. NIM của hệ thống ngân hàng đã bắt đầu các dấu hiệu tạo đáy dù vẫn còn phân hóa giữa các nhóm ngân hàng khác nhau và được kỳ vọng sẽ có thể quay trở lại xu hướng tăng trong những quý tiếp theo…

Tổng thu nhập hoạt động ngành ngân hàng quý 3 tăng 13,02% so với cùng kỳ năm trước nhưng lại suy giảm so với quý 2 trong đó thu nhập lãi thuần tăng 17,92% và đáng chú ý lợi nhuận từ hoạt động khác tăng mạnh gần 132% bù đắp cho việc suy giảm từ các hoạt động còn lại của ngân hàng. Tăng trưởng tín dụng của các ngân hàng niêm yết đã cải thiện tích cực từ mức 2,11% trong Q1 lên 11,53% trong Q3 tuy nhiên đánh đổi cho mức tăng trưởng thì NIM của ngành ngân hàng vẫn duy trì đà suy giảm trong các quý gần đây trong bối cảnh lãi suất cho vay được giữ ở mức thấp và kích cầu các gói tín dụng để hỗ trợ nền kinh tế.

Cho vay bán lẻ vẫn đang gặp nhiều khó khăn trước bối cảnh tiêu dùng yếu và động lực tăng trưởng chủ yếu đến từ mảng cho vay doanh nghiệp tuy nhiên những khó khăn trong đầu ra khiến cho các doanh nghiệp vẫn rất thận trọng việc đầu tư, đặc biệt là các doanh nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng. Phần lớn hoạt động đầu tư và sản xuất gia tăng chủ yếu đến từ các ngành công nghiệp sản xuất các sản phẩm không thiên về tiêu dùng. Sự chuyển dịch trong cơ cấu tín dụng khiến NIM chịu áp lực giảm mạnh và những sự cải thiện trong NIM chỉ có thể được kỳ vọng khi tín dụng khu vực tiêu dùng bắt đầu được cải thiện.

Xu hướng NIM của các nhóm ngân hàng

NIM của hệ thống ngân hàng trong quý 3 chịu các tác động đan xen của các yếu tố tích cực và tiêu cực. Dù chi phí vốn giảm mạnh hơn so với lãi suất đầu ra tuy nhiên mức chênh lệch lại thấp hơn so với quý trước khiến ngân hàng không duy trì được NIM. Tăng trưởng tín dụng cao nhưng các ngân hàng liên tục giảm lãi suất và phát hành các gói cho vay ưu đãi để hỗ trợ doanh nghiệp và người dân khắc phục sau cơn bão.

Trước bối cảnh NIM suy giảm của hệ thống ngân hàng, các ngân hàng với chiến lược kinh doanh khác nhau cũng ghi nhận sự diễn biến khác nhau về NIM. Nhóm các ngân hàng quốc danh có thu nhập lãi thuần giảm mạnh so với hai quý đầu năm mặc dù tăng trưởng tín dụng có nhiều diễn biến tích cực. Với chiến lược cho vay thận trọng và mức lãi suất đầu ra cạnh tranh để lựa chọn được đối tượng khách hàng tốt là yếu tố chính khiến mức NIM của nhóm chỉ cao hơn so với trung bình ngành.

Nhóm các NHTM tập trung cho vay doanh nghiệp với lợi thế cung ứng nguồn vốn cho hệ sinh thái của các doanh. Xu hướng đẩy mạnh cho vay doanh nghiệp từ đầu năm đến nay của cả ngành giúp nhóm doanh nghiệp này dẫn đầu về mức tăng trưởng với những nền tảng lợi thế vốn có. Mặc dù dẫn đầu về tăng trưởng tín dụng trong quý 3 tuy nhiên mức NIM của nhóm ngân hàng tiếp tục thể hiện xu hướng giảm, từ mức 4,07% của quý trước xuống mức 4,01%.

Diễn biến NIM của ngành ngân hàng giai đoạn 2023 - 9T2024

Picture6-18

Nguồn: tổng hợp từ widata.vn

Trong khi đó, nhóm ngân hàng chuyên cho vay cá nhân có sự cải thiện về NIM khi mà xu hướng tăng trưởng tín dụng tiêu vẫn đang gặp nhiều khó khăn trước sức cầu yếu của thị trường mặc dù mặt bằng lãi suất cho vay vẫn đang ở mức thấp và hấp dẫn. Tín dụng tiêu dùng đang cho thấy những dấu hiệu phục hồi khi phần lớn các ngân hàng đều báo cáo có sự tăng trưởng đáng kể cho phân khúc tín dụng bán lẻ trong quý 3 so với quý trước. Điều này góp phần kiểm soát xu hướng giảm NIM do nhóm này đang đẩy mạnh tín dụng doanh nghiệp từ đầu năm để duy trì tăng trưởng.

Ở nhóm các ngân hàng khác thì một điểm cần chú ý là xu hướng cải thiện NIM trong hai quý vừa qua. Nhóm ngân hàng khác, với quy mô tổng tài sản nhỏ và không có lợi thế trong việc huy động nguồn vốn giá rẻ cộng với việc lãi suất đầu ra ở mức cao để giữ phần chênh lệch, tăng trưởng tín dụng có sự cải thiện nhưng vẫn thấp hơn so với trung bình ngành. Nguyên nhân chủ yếu cho mức cải thiện NIM đến từ việc COF (biên chi phí lãi) giảm mạnh từ 5,79% xuống 5,15% trong khi YEA (biên thu nhập lãi) chỉ giảm từ 7,94% xuống 7,48%, một phần đến từ việc nhóm này cải thiện được CASA trong thời gian qua, từ các khoản tín dụng mới cho doanh nghiệp được giải ngân.

NIM có sự phân hóa giữa các ngân hàng

NIM có xu hướng đi ngang và suy giảm nhẹ ở các ngân hàng quốc danh, giữa các ngân hàng cũng không có sự phân hóa quá đáng kể. Trong quý 2 VCB có mức NIM cao nhất nhóm đạt 2,98% suy giảm từ mức 3,01% trong quý 2, việc đẩy mạnh tăng trưởng tín dụng chủ yếu vào nhóm khách hàng hiện hữu và các doanh nghiệp FDI có nguồn tiền ổn định với rủi ro thấp hơn tuy nhiên mức sinh lời của các khoản vay này cũng không cao. Tỷ lệ nợ xấu tăng nhưng chi phí trích lập giảm cho thấy ngân hàng đang đánh đổi trong việc duy trì lợi nhuận thay vì phòng ngừa rủi ro.

Trong đó, tăng trưởng tín dụng của CTG chỉ đạt 8,96% thấp hơn so với hai ngân hàng còn lại, mức lãi suất đầu vào tiếp tục giảm mạnh hơn so với lãi suất đầu ra là động lực giúp NIM của ngân hàng duy trì đi ngang trong quý 3, trong kỳ ngân hàng cũng ghi nhận nguồn lợi nhuận từ hoạt động khác tăng gấp 2,8 lần so với cùng kỳ, giúp tổng thu nhập hoạt động tăng 26%. Ngược lại BID tiếp tục xu hướng giảm NIM mặc dù có sự tăng trưởng tín dụng mạnh sau giai đoạn tăng chậm trong hai quý vừa qua. Đáng chú ý mức NIM của VCB đang thu hẹp dần so với hai ngân hàng còn lại, và hiện tại đã gần như bằng với mức NIM của Vietinbank.

Đối với nhóm ngân hàng chuyên cho vay doanh nghiệp thì dù NIM sụt giảm nhẹ nhưng vẫn có nhiều ngân hàng trong nhóm đã bắt đầu có sự cải thiện NIM trong kỳ. HDBank liên tục dẫn đầu nhóm với mức NIM đạt 5,49% tăng từ mức 5,28% trong quý 2. Tăng trưởng tín dụng TCB cao nhất nhóm đạt 20,76% nhưng với mức lãi suất cho vay thấp đã phản ánh áp lực lên sự sụt giảm từ thu nhập lãi thuần và mức YEA so với quý trước trong bối cảnh tỷ lệ nợ xấu tiếp tục gia tăng từ ngân hàng, mức CASA giảm khiến TCB không duy trì được NIM trong quý 3. LPB tiếp tục cải thiện NIM từ 3,36% lên 3,44%, trong khi MBBank giảm 0,18 điểm phần trăm còn khoảng 4,23% và MSB giảm 0,23 điểm phần trăm xuống 3,59% trong qúy 2.

Đối với các ngân hàng chuyên cho vay cá nhân như ACB và VIB tiếp tục ghi nhận sự sụt giảm NIM trong bối cảnh mảng cho vay cá nhân và tiêu dùng vẫn đang gặp nhiều khó khăn và hai ngân hàng này đều phải tích cực đẩy mạnh mảng cho vay doanh nghiệp để bù đắp. Trong đó, VIB với mức NIM giảm gần 0,18 điểm phần trăm so với quý trước đạt 4,25% trong quý 2, việc tăng trưởng mạnh tín dụng từ 4,72% lên 11,72% trong quý 3 nhờ tăng trưởng tín dụng doanh nghiệp cũng góp phần làm giảm NIM của ngân hàng khi mức YEA giảm mạnh.  

Diễn biến NIM của các NHTM tại quý 3.2024

Picture3-33

Nguồn: tổng hợp từ widata.vn

Ngược lại VPB là ngân hàng duy nhất trong nhóm cải thiện NIM nhờ chiến lược gia tăng dư nợ cho các doanh nghiệp với mức NIM đạt 5,98% tăng từ 5,75% trong quý 2. Ngoài ra TPB sau giai đoạn bứt phá NIM ở quý 2 đi kèm chi phí vận hành tiết kiệm nhờ số hóa toàn diện giúp giảm chi phí hoạt động thì trong quý 3 lại suy giảm 0,12% về mức 4,23%, nguyên nhân chủ yếu đến từ sự sụt giảm mạnh trong CASA.

Trái ngược với xu hướng đi ngang và giảm NIM của phần lớn các ngân hàng, nhóm các ngân hàng khác lại tiếp tục ghi nhận sự tăng trưởng tích cực về NIM, hầu hết các ngân hàng trong nhóm khác đều có sự cải thiện NIM tốt hơn quý 2. Đặc biệt các ngân hàng có sự tăng trưởng tín dụng mạnh mẽ trong quý 3 cũng là những ngân hàng ghi nhận sự tăng trưởng về NIM. Cụ thể NAB tiếp tục dẫn đầu nhóm với mức NIM đạt 3,78% tăng 0,16 điểm phần trăm so với quý 2, EIB tăng 0,22 điểm phần trăm lên 2,86%. Bên cạnh đó việc gia tăng nợ vay từ NHNN với mức lãi suất ưu đãi, việc đẩy mạnh tín dụng trong những quý cuối năm giúp thu nhập lãi thuần tăng 70,15% so với cùng kỳ năm trước. Tuy nhiên việc đẩy tăng quá nhanh tín dụng cũng gây ra những rủi ro tiềm ẩn về nợ xấu và khả năng thu hồi trong tương lai khi mà tỷ lệ nợ xấu của nhóm ngân hàng khác luôn cao hơn so với trung bình ngành.

Bức tranh về NIM của hệ thống ngân hàng đã có nhiều cải thiện hơn với sự phục hồi từng bước của tín dụng tiêu dùng tuy nhiên với mức độ phân hóa ở các nhóm ngân hàng và các ngân hàng trong mỗi nhóm chiến lược, dựa trên mức biến động CASA của các ngân hàng, cho thấy vẫn nhiều điều cần phải tiếp tục theo dõi trong thời gian sắp tới.

Lê Hoài Ân, CFA

Võ Nhật Anh - UEL

Share: